NGUYEN MANH HUNG
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Ai là người xuất sắc nhất?

Go down

Ai là người xuất sắc nhất?  Empty Ai là người xuất sắc nhất?

Bài gửi  Admin Sat Sep 03, 2011 9:12 pm

1. Gerd Muller, biệt danh “Der Bomber” (máy bay ném bom). Tiền đạo vĩ đại nhất trong lịch sử Bayer Munich.
Thành tích ghi bàn: 405 bàn qua 507 trận, trong đó có 365 bàn ở Bundesliga (nhiều nhất trong lịch sử). 7 lần đoạt danh hiệu Vua phá lưới Bundesliga. Ghi bàn nhiều nhất cho đội tuyển Đức: 68 bàn qua 62 trận.Vua phá lưới VCK World Cup 1970 (10 bàn) và VCK Euro 1972 (11 bàn). Cầu thủ ghi nhiều bàn nhất tại các VCK Euro (16 bàn) và thứ hai tại các VCK World Cup (14 bàn). Ghi 67 bàn tại các cúp châu Âu. Cả sự nghiệp ghi 600 bàn.
Danh hiệu: Vô địch thế giới năm 1974. Vô địch châu Âu năm 1972. 1 cup liên lục địa 1976. 3 cup C1 châu Âu năm 1974, 1975, 1976, 1 cup C2 châu Âu năm 1967. 4 lần VĐQG Đức, 4 cup QG Đức.
Gerd Muller là tiền đạo có hiệu suất ghi bàn đáng sợ nhất trong lịch sử bóng đá châu Âu. Ngoài kỉ lục ghi 14 bàn tại các VCK World Cup mà mãi 28 năm sau mới bị Ronaldo phá vỡ, các kỉ lục khác của tiền đạo này vẫn còn tồn tại và có lẽ sẽ rất lâu mới bị phá, nhất là trong hoàn cảnh bóng đá hiện đại. Biệt danh “Der Bomber” cũng do các hàng phòng ngự đối phương quá hoảng sợ khi đối mặt với Muller mà đặt nên. “Máy bay ném bom” đã cùng Bayer Munich làm nên giai đoạn hưng thịnh nhất trong lịch sử CLB này khi hùng bá châu Âu trong suốt 3 mùa giải liên tiếp. Ông cũng là người ghi bàn quyết định giúp Đức đăng quang tại World Cup 1974 ngay trước mũi “Cơn lốc màu da cam” nổi tiếng của Cruiff, Neeskens, Rensenbrink…và cũng ghi bàn trong cả hai trận CK Euro, trong đó có một lần giúp Đức bước lên ngôi VĐ.
Lối chơi của Muller rất đặc biệt. Ông như con sói tinh ranh trên sân cỏ, thường giấu nanh giấu vuốt bằng những đướng chuyền vô hại và lối di chuyển lừ đừ như đi bộ. Đối phương lơ là trước nhân vật hiền lành thừa thãi đó, và chỉ cần một cơ hội, Muller đã lẻn đến khung thành từ lúc nào, đến khi đối phương tỉnh ra thì đã muộn, khi con sói đã nhe nanh. Muller có khả năng săn lung cơ hội cực kì nhạy bén và khi đã có cơ hội thì cú sút dứt điểm của ông cũng hết sức chính xác. Đặc biệt trong các tình huống bất ngờ như bóng dội khung thành bật ra hay khi hậu vệ đối phương sai lầm, Muller chưa bao giờ để sổng.
Thề mà chính lối chơi ấy cùng đôi chân vòng kiềng suýt nữa đã hại Muller. Chính HLV nổi tiếng Tschik Caijkovski nói về Muller khi lần đầu xem ông thi đấu tại CLB Bayer Munich: “Tôi không muốn để chú voi con này làm hỏng đội hình đầy tài năng của mình” .Rất may sau đó HLV này đã thay đổi suy nghĩ do phong độ của Muller và thế là bắt đầu một huyền thoại của Bundesliga và cả bóng đá thế giới.

2.Ferenc Puskas, biệt danh “Canoncito Pum” (Khẩu thần công nhỏ). Cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá Hungary.
Thành tích ghi bàn: Cả sự nghiệp ghi 1176 bàn qua 1300 trận. Ghi 83 bàn qua 84 trận cho đội tuyển Hungary. Ghi 512 bàn qua 528 trận cho Real Madrid. Là cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất châu Âu năm 1948 (50 bàn). 3 lần là Vua phá lưới giải VĐQG Hungary. 4 lần đoạt danh hiệu Vua phá lưới giải VĐQG Tây Ban Nha.
Danh Hiệu: Quả bóng bạc châu Âu năm 1960. Á quân thế giới năm 1954. HCV Olympic năm 1952. 1 cup Liên lục địa năm 1960. 3 cup C1 châu Âu. 4 lần VĐQG Hungary. 5 lần VĐQG Tây Ban Nha. 1 cup QG Tây Ban Nha.
Ngày 25/11/1953, Puskas và các đồng đội trong đội tuyển Hungary đi vào lịch sử với tư cách là đội đầu tiên hạ gục đội tuyển Anh trên thánh địa Wembley, điều mà 50 năm chưa có đội bóng nào kể cả đội hình tiêu biểu của FIFA và UEFA làm được. Sáu tháng sau, Anh quyết tâm đòi nợ tại Budapest và lần này Puskas cùng đồng đội cho Tam sư nếm thất bại nặng nề nhất trong lịch sử với tỉ số 7-1. “Đội bóng vàng” ngày ấy với những Kocsis, Hidegkuti, Bozsik, Czibor… và nổi bật nhất là Puskas bất bại trong suốt 4 năm, nhưng lại thất bại trong trận đấu quan trọng nhất trong đời cầu thủ: chung kết World Cup năm 1954 trước đội tuyển Đức, dù đã dẫn 2-0 trong 12 phút đầu.
Puskas có lối chơi thong tin và ranh mãnh. Ông liên tục uy hiếp khung thành đối phương mà lại ít di chuyển và ít va chạm. Sau khi cuộc chính biến ở Hungary nổ ra, Puskas mất cảm giác thi đấu trong hơn 1 năm, và sau khi trở lại ông bị các CLB ở châu Âu thờ ơ: họ không tin một ngôi sao đã ở tuổi 30. Chỉ có Real Madrid tiếp nhận ông và đó là một trong những quyết định sáng suốt nhất của CLB này. Nagy trong năm đầu tiên khoát áo Real, Puskas giúp CLB này đăng quang tại đấu trường C1 lần thứ 5 liên tiếp. Cũng trong trận CK năm đó ông trở thành cầu thủ duy nhất ghi 4 bàn trong một trận Ck cup C1.
Puskas không thuận chân phải mà cũng không cần phải đá chân phải vì chân trài của ông quá siêu. Ngoài sức mạnh như đại bác, chân trái của Puskas còn có kĩ thuật vô cùng điều luyện. Có một bàn thắng Puskas ghi mà đến nay người ta vẫn còn nhắc mãi: Trong trận gặp Atletico năm 1961, Puskas thực hiện quả đá phạt bằng chân trái mà không cần lấy đà, bóng vẽ một vòng cung và đi vào lưới. Nhưng trọng tài không công nhận vì chưa có còi và bắt ông thực hiện lại. Puskas đá lại quả bóng y như cũ, theo quĩ đạo cũ và cũng chui vào lưới chỗ cũ, thủ môn vẫn phải bó tay ! Puskas hợp với Di Stefano và Gento thành hàng công hủy diệt đi vào huyền thoại của Real và cả châu Âu

3.Eric Cantona, Cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại của M.U.
Thành tích ghi bàn: ghi 19 bàn qua 45 trận cho tuyển Pháp. Ghi 81 bàn qua 185 trận cho M.U.
Danh hiệu: năm 2001 được bầu chọn Cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử của M.U. Quả bóng đồng châu Âu năm 1993. Onze vàng năm 1996. Cầu thủ xuất sắc nhất nước Anh năm 1994, 1996. 1 lần VĐQG Pháp. 1 cup QG Pháp. 4 siêu cup Anh. 5 lần VĐQg Anh. 2 cup FA.
Đối với CLB Manchester United, Cantona là một thủ lĩnh vĩ đại trên sân có, là chỗ dựa tinh thần của lớp cầu thủ trẻ tài năng như Beckham, Giggs, Scholes… nhờ cá tính mạnh mẽ của mình. Đối với CĐV M.U, họ coi Cantona là vị thánh sống, là biểu tượng của CLB, khi đem lại thành công cho M.U ngay trong mùa đầu tiên sau 26 năm chờ đợi và trong suốt 5 mùa có mặt. Chính vì vậy mà người ta vẫn bỏ qua cho anh hành động phi thể thao khiến anh bị treo giò 9 tháng: cú kungfu vào mặt một CĐV Crystal Palace ngồi ở hàng ghế đầu khi bị anh này mắng nhiếc.
Cantona là cầu thủ đeo chiếc áo số 7 huyền thoại ở M.U. Anh là người đội trưởng đầy bản lĩnh trên sân, là chỗ dựa tinh thần cho toàn đội và cũng là một chân sút đẳng cấp. Các bàn thắng anh ghi được cho M.U hầu hết đều rất đẹp và thể hiện được dấu ấn của một thiên tài bóng đá. Khả năng di chuyển, chọn vị trí và dứt điểm những đường chuyền từ cánh vào của Cantona chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công của lối chơi đặc trưng của M.U, khi họ đã sở hữu những tiền vệ cánh hàng đầu như Giggs, Beckham.
Khi anh bất ngờ quyết đinh giã từ sự nghiệp ở tuổi 31, Cantona đã làm tất cả luyến tiếc. David Meek – nhà bào chuyên theo dõi M.U trong suốt 40 năm, đã viết những dòng sau về Cantona: “Trong lịch sử của mối quan hệ Anh – Pháp, chỉ có Napoleon mới có thể khiến người Anh nói đến nhiều như Monsieur Cantona.
4. George Best, biệt danh El Beatle hay The fifth Beatle, siêu sao quảng cáo đầu tiên trong giới bóng đá.
Thành tích ghi bàn: 9 bàn qua 37 trận cho Bắc Ireland. 180 bàn qua 474 trận cho M.U. Vua phá lưới giải VĐQG Anh mùa 1967-68. Giữ kỉ lục ghi nhiều bàn nhất trong một trận cho M.U: 6 bàn trong trận thắng Northampton 8-2 ngày 7/2/1970. Ghi 2 bàn quyết định trong trận CK cup C1 năm 1968.
Danh hiệu: Cầu thủ Bắc Ireland xuất sắc nhất thế kỉ. Quả bóng vàng châu Âu 1968. Quả bóng đồng châu Âu 1971. 2 siêu cup nước Anh. 2 lần VĐQG Anh. Cầu thủ xuất sắc nhất nước Anh 1968. 1 cup C1 năm 1968. 1 cup FA 1963.
Trên sân cỏ Best là cầu thủ nhanh nhất, khỏe nhất, dẻo dai bền bỉ nhất, kĩ thuật điêu luyện nhất trong thế hệ mình. Best lừa bóng giỏi và đẹp đến độ Eusebio phải đứng bật dậy vỗ tay khen ngợi khi chứng kiến Best lừa bóng và ghi bàn trong trận CK thắng Benfica 4-1 của M.U. Best có lối chơi quá cá nhân, nhưng ông nói rằng ông bị cám dỗ khi lừa bóng mà không chuyền cho một ai, bởi vì ông ý thức được rằng mình đang làm được một điều mà chưa ai làm được trên sân cỏ Anh. Bobby Charlton, đồng đội của Best tại M.U, chỉ bình luận đơn giản: “Best nói đúng”. Người ta gọi ông là thành viên thứ năm của ban nhạc Beatle nổi tiếng cũng vì những lẽ ấy.
Best là một dạng siêu sao kiểu David Beckham của những năm 60, điều mà Charlton – cầu thủ vĩ đại nhất nước Anh kiểu cổ điển, không bao giờ có. Best cũng là cầu thủ đầu tiên dùng tên tuổi của mình để kinh doanh: ông gắn tên mình vào mọi thứ, từ quần áo đến hộp đêm. Ông quảng cáo cho mọi sản phẩm, từ nước cam đến áo lót phụ nữ. Tiền chảy vào túi Best nhiều như nước đến mức ông không thể kiểm soát nổi. Rượu và gái đẹp trở thành hai thứ không thể thiếu trong cuộc sống của ông từ năm 19 tuổi. Nhưng không hề gì, Best vẫn tập luyện hăng say và vẫn rực sáng trên sân, chỉ đến khi lối sống phóng túng đó làm hại Best và ông phải giã từ sự nghiệp năm 1972.
Dù mang tai tiếng là tay chơi số một trong lịch sử nước Anh, trên cả Gazza sau này, Best vẫn được các CĐV M.U và các fan hâm mộ thế giới cảm thông và yêu quí, vì trên hết, Best là một tài năng vĩ đại từng khiến bao người rơi nước mắt với những pha đi bóng đắm đuối và những bàn thắng thần sầu.
5. Hristo Stoichkov: Cầu thủ xuất sắc nhất của xứ sở hoa hồng..
Thành tích ghi bàn: Chiếc giày vàng châu Âu năm 1990. IFFHS bầu chọn Cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất thế giới năm 1994. Ghi 37 bàn qua 84 trận cho Bulgaria. Đồng Vua phá lưới VCK World Cup năm 1994 (6 bàn). Vua phá lưới giải VĐQG Bulgaria các năm 1989, 1990.
Danh hiệu: Quả bóng vàng châu Âu 1994. Quả bóng bạc châu Âu 1992. Onze vàng 1992. Onze bạc 1994. Cầu thủ xuất sắc thứ hai thế giới năm 1992,1994. 2 Siêu cup châu Âu (1992,1997). 1 lần vô địch Champions League(1992). 1 cup C2 châu Âu. 1 cup C2 châu Á. 3 lần VĐQG Bulgaria. 4 lần VĐ Cup QG Bulgaria. 5 lần được bình chọn Cầu thủ xuất sắc nhất Bulgaria. 3 siêu cup Tây Ban Nha. 5 lần VĐQG Tây Ban Nha. 3 cup QG Tây Ban Nha. 1 cup Mĩ mở rộng.
Một nhân vật vực dậy cả một nền bóng đá là trường hợp của Stoichkov. Không có ông, bóng đá Bulgaria chẳng là gì. Có Stoichkov trong đội hình, Bulgaria hạ tuyển Pháp với cặp Papin – Cantona ở vòng loại, và sau đó thắng giòn giã Archentina và Đức – hai đội bóng có mặt trong trận CK trước đó, và đưa Bulgaria, vốn trước đây chưa thắng nổi trận nào tại các VCK World Cup, đoạt hạng Tư thế giới, và riêng ông đoạt giải thưởng Vua phá lưới. Đó chính là dấu ấn của một thiên tài bóng đá.
Ở cấp độ CLB, Stoichkov còn thành công vang dội hơn. Ông là trụ cột trong Dream Team của Barca dưới thời Johan Cruiff, với vô số các danh hiệu: Champions League, cup C2, 4 chức vô địch Primera Liga liên tiếp, và thời kì chơi bóng tại Barca cũng biến Stoichkov thành siêu sao hàng đầu thế giới, với danh hiệu Quả bóng Vàng năm 1994.
Stoichkov nổi tiếng với cái chân trái siêu việt. Với chân trái kì diệu của mình, Stoichkov có thể làm được tất cả: lừa bóng, ghi bàn, sút phạt, chuyền bóng, tất cả đều với sự chính xác và hoàn hảo đáng kinh ngạc. Có nhà báo từng nhận xét rằng: “Chân trái của Stoichkov kheo léo như bàn tay người vậy”. Sau khi Stoichkov từ giã sự nghiệp, Bulgaria lại chìm vào quên lãng và Barca cũng không thể trở lại thành đội bóng thực sự hùng mạnh như xưa. Đơn giản vì họ không còn tìm đâu ra được một Stoichkov nữa…


6. Marco van Basten, người Hà Lan bay.
Thành tích ghi bàn: Chiếc giày Vàng châu Âu năm 1986. Ghi 24 bàn qua 58 trận cho đội tuyển Hà Lan. Ghi 151 bàn qua 172 trận cho Ajax. Ghi 90 bàn qua 147 trận cho AC Milan. 4 lần giành danh hiệu Vua phá lưới giải VĐQG Hà Lan. 2 lần là Vua phá lưới giải VĐQG Italia.
Danh hiệu: Quả bóng Vàng châu Âu các năm 1988, 1989, 1992. Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới năm 1992. Onze vàng các năm 1988,1989. Onze bạc các năm 1987,1992. 1 lần VĐ châu Âu. 2 cup Liên lục địa. 2 Siêu cup châu Âu. 2 cup C1 châu Âu. 3 lần VĐQG Hà Lan. Cầu thủ xuất sắc nhất Hà Lan năm 1985. 3 cup QG Hà Lan. 2 Siêu cup Ý. 3 lần VĐQG Ý.
Trước Ronaldo, van Basten là tiền đạo xuất sắc nhất thế giới cuối thập kỉ 80 đầu 90. Marco van Basten là trung phong kiểu châu Âu điển hình, không mạnh về khả năng rê dắt, đột phá nhưng dứt điểm tốt bằng cả hai chân và chơi đầu cực hay. Cùng với Michel Platini và Johan Cruiff, van Basten đang giữ kỉ lục về số lần đoạt QBV (3 lần), và cũng là tiền đạo châu Âu cuối cùng đoạt giải Cầu thủ hay nhất trong năm của FIFA.
Quãng thời gian thi đấu đỉnh cao của van Basten rất ngắn, chỉ khoảng 5 năm, nhưng cũng đủ để anh ghi lại những dấu ấn khó phai nhạt. Trong chiến thắng quan trọng duy nhất của Hà Lan tại một giải lớn: VCK Euro 1988, van Basten đóng góp công rất lớn. Anh lập hat-trick vào lưới Anh tìm lại hi vọng cho Hà Lan sau khi ra quân thất bại. Anh ghi bàn quyết định trong các trận BK, CK của giải và đoạt luôn giải Vua phá lưới, còn Hà Lan lần đầu tiên nâng cao cup vô địch, điều mà ngay cả thế hệ của“Thánh Johan” vẫn không làm nổi.
Còn ở cấp độ CLB, van Basten cũng đạt những thành công rực rỡ. Ông là người nổi bật nhất trong “bộ ba Hà Lan bay” giúp Milan khuynh đảo châu Âu thời kì đó. Ông cũng là tác giả của những bàn thắng rất đẹp, mà điển hình là cú vô-lê “không tưởng” trong trận CK Euro 1988. Đó là một trong những bàn thắng đẹp nhất trong lịch sử bóng đá. Rất tiếc các hậu vệ đối phương vì quá khiếp Basten nên đã đốn giò ông không thương tiếc. Vì thế mà một trong những tiền đạo tài năng nhất thế giới đành phải giã từ sự nghiệp khi còn ở đỉnh cao phong độ.

7 - Eusebio, “Con báo đen” châu Phi của Bồ Đào Nha.
Thành tích ghi bàn: Chiếc giày vàng châu Âu ( 1968, 1973). Vua phá lưới World Cup 1966 (9 bàn). Ghi 41 bàn qua 64 trận cho đội tuyển Bồ Đào Nha. 7 lần đoạt danh hiệu Vua phá lưới giải VĐQG Bồ Đào Nha, trong đó có 5 lần liên tiếp. Ghi 727 bàn qua 715 trận khoát áo Benfica, trong đó có 317 bàn trong 301 trận tại giải VĐQG.
Danh hiệu: Quả bóng Vàng châu Âu (1965). Hạng 3 thế giới 1966. 1 cup C1 châu Âu (1962). 10 lần vô địch giải VĐQG Bồ Đào Nha. 5 cup quốc gia Bồ Đào Nha. Cầu thủ xuất sắc nhất Bồ Đào Nha (1970,1973).
Eusebio Da Silva Ferreira sinh ra tại đất nước Mozambique nghèo khó, thuộc địa của Bồ Đào Nha, và ngay từ khi xuất hiện chàng trai này đã làm nảy sinh cuộc tranh cãi nảy lửa giữa hai CLB lớn nhất Bồ Đào Nha, Sporting Lisbon và Benfica, cuối cùng Benfica đã có được Viên ngọc đen này để vươn lên thành CLB có thành tích từng đoạt cup C1, điều mà đối thủ truyền kiếp của họ không bao giờ làm được. Eusebio có bàn thắng ngay trong trận thứ hai chơi cho Benfica: trận chung kết cup giao hữu ở Paris với Santos, trong đó có cái tên Pele. Ông lập một cú hat-trick trong trận ấy trước sự ngỡ ngàng của Pele và cả thế giới.
Đó mới chỉ là màn khởi đầu của những điều kì diệu. Ông cùng Benfica thống trị giải trong nước, và còn vươn ra tầm châu lục. Lần đầu tiên, 1 CLB ở Bồ Đào Nha trở thành một đại gia châu Âu. ở tuổi 20, Eusebio là nguồn cảm hứng giúp Benfiaca đăng quang sau khi hạ Real Madrid của Di Stefano trong trận CK cup C1 năm 1962 với tỉ số 5-2, trong đó Eusebio lập cú đúp. Benfica còn 3 lần nữa vào CK nhưng không đoạt được chức VĐ.
Ở cấp độ quốc gia, giải đấu mà Eusebio để lại nhiều ấn tượng nhất chính là World Cup 1966. Eusebio thể hiện một phong độ gây sửng sốt khi ghi 4 bàn vào lưới Triều Tiên trong trận tứ kết, giúp Bồ Đào Nha thắng ngược 5-3 sau khi bị dẫn 3-2 trong hiệp một. Mặc dù phải dừng chân trước chủ nhà Anh trong trận bán kết, nhưng Eusebio cũng đã có 9 bàn thắng cho mình để trở thành Vua Phá lưới của giải ấy. World Cup năm 1966 chính là một thời khắc tuyệt vời nhất trong toàn bộ lịch sử bóng đá Bồ Đào Nha.
Xuất thân từ bóng đá đường phố hoang dã của châu Phi, Eusebio mang một lối chơi đầy thể lực và tốc độ, sự nhanh nhẹn của một con báo đen và thiên phú săn bàn tuyệt hảo. Với tốc độ, kỹ thuật và sức mạnh, ông biết tự tạo cơ hội cho mình chứ không quá phụ thuộc vào sự hỗ trợ của tuyến dưới. Với khả năng tăng tốc mạnh mẽ và xử lý bóng ma thuật như mèo vườn chuột, ông luôn có những pha rê dắt bóng lắt léo và rất khó ngăn chặn. Chúng đã trở thành một vũ khí hoàn hảo của Eusebio trước bất kỳ một hàng phòng ngự nào. Cùng với những thành tích ông đạt được và nhân cách cao cả, Eusebio chính là cái tên lớn nhất trong làng bóng đá Bồ Đào Nha, mặc dù sau này xuất hiện “Thế hệ vàng” với Figo, Rui Costa, Sousa…, bởi vì: “Figo là một ngôi sao lớn, trong khi Eusebio là một huyền thoại”


8. Alfredo Di Stefano, huyền thoại vĩ đại nhất của đội bóng huyền thoại Real Madrid.
Thành tích ghi bàn: 1 lần là Vua phá lưới giải VĐQG Archentina trong màu áo River Plate. 2 lần Vua phá lưới giải VĐQG Colombia trong màu áo Huracan. 5 lần là Vua phá lưới giải VĐQG Tây Ban Nha trong màu áo Real. Ghi 228 bàn trong 329 trận tại Primera Liga, chỉ sau Hugo Sanchez và Telmo Zarra. Ghi 216 bàn trong 285 trận tại cup Nhà Vua Tây Ban Nha.
Danh hiệu: 2 lần đoạt Quả bóng Vàng châu Âu ( 1957,1959). Onze vàng năm 1989. 2 lần VĐQG Archentina. 4 lần VĐQG Colombia. 1 cup liên lục địa. 5 cup C1 châu Âu. 8 lần VĐQG Tây Ban Nha. 1 Copa America. FIFA bầu chọn Cầu thủ xuất sắc thứ tư trong lịch sử bóng đá, bên cạnh Pele, Maradona, Cruiff.
Saeta rubia (Mũi tên bạc) là một trong vài cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá, đã được ghi tên vào Ngôi nhà của các Huyền thoại thế giới. Do một số lí do khách quan mà ông không mấy thành công ở cấp độ ĐTQG Archentina và Tây Ban Nha, nhưng chỉ riêng sự nghiệp vẻ vang cùng Real Madrid là quá đủ để người ta ngả mũ kính phục. Nếu Real được bình chọn là CLB xuất sắc nhất thế kỉ 20 phần lớn là nhờ giai đoạn thập niên 1950, thì Di Stefano là linh hồn của Real trong giai đoạn rực rỡ đó. Ông mang băng thủ quân, là đối tác ăn ý với Puskas và Gento trên hàng công đi vào sử sách của Real. Hơn nữa, ông có mặt trên từng cm mặt sân, có thể thi đầu tốt ở mọi vị trí, thậm chí là thủ môn nếu cần và bắt bóng không tồi!
Người hâm mộ ngày nay khó có thể thấy được sự xuất sắc về chuyên môn của Di Stefano. El Mundo – đài truyền hình giữ phần lớn tư liệu video về ông, có một thói quen mà giới bóng đá rất ghét, đó là cắt hết những phần dẫn đến bàn thắng, chỉ để lại cảnh cầu thủ tung cú sút ghi bàn. Chỉ những người trực tiếp xem Di Stefano đá, mới thấy hết được tài năng vĩ đại của ông. Bobby Charlton nói: “Tôi chưa từng thấy cầu thủ nào thi đấu thông minh và kĩ thuật đến như vậy trong đời.” Quả thật, ông mà mẫu cầu thủ gần như không thực, với thể lực tuyệt vời, kĩ thuật hoàn hảo, nhãn quan chiến thuật sắc nhọn và tư chất của một thủ lĩnh. Người ta từng chứng kiến Di Stefano lao hết chiều dài thân người vào cú tạt cực căng của Migel từ cánh vào để ghi bàn, không phải bằng cách đội đầu, mà là đánh gót ! 5 cúp C1 và 8 lần VĐQG khi có Di Stefano, trong khi trước đó Real chỉ kiếm được 2 chức vô địch La Liga, quả là người Madrid tạc tượng ông vẫn là chưa xứng.
Người ta truyền tụng nhiều giai thoại về Di Stefano. Rằng có một tổ chức tội phạm bắt cóc ông, cung phụng đủ điều rồi thả ra chỉ để lấy danh. Rằng ông đi bóng luôn luôn thẳng lưng nhưng bóng đổi hướng như ma thuật. Và cả điều ông tiết lộ rằng trong những người bạn tuổi thơ đá bóng cùng ông trên những đường phố bụi bặm ở Buenos Aires, có 40 người còn đá bóng giỏi hơn, ông chỉ là người may mắn được chơi bóng tiếp và trở thành huyền thoại. Nhưng có một điều chắc chắn là thật, Di Stefano mãi là cầu thủ vĩ đại nhất trong tâm tưởng những người từng biết về ông, như một lời khẳng định: “Pele là cây vĩ cầm chính của dàn nhạc, còn Di Stefano là cả dàn nhạc.”

Admin
Admin
thiếu úy
thiếu úy

Tổng số bài gửi : 129
Join date : 12/04/2011
Age : 28
Đến từ : soc son

https://nguyenmanhhung199x.forumvi.com

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết